TƯ VẤN PHÁP LÝ VỀ TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Khái niệm đơn khởi kiện?
Đơn khởi kiện là một loại văn bản của các cá nhân, tổ chức, cơ quan gửi đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trong đó, đương sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền hoặc lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại.
Trả lại đơn khởi kiện là việc Tòa án sau khi xem xét thụ lý vụ án, đã trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo cho người khởi kiện bởi thấy việc khởi kiện chưa đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện nên không thể thụ lý vụ án.
Trong quá trình trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, các Thẩm phán cần phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Đơn khởi kiện (bao gồm cả tài liệu, chứng cứ kèm theo) mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu theo đúng quy định của pháp luật.
Quy định trả lại đơn khởi kiện?
Theo khoản 1 Điều 192 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 đưa ra quy định về việc Thẩm phán phải trả lại đơn khởi kiện trong bảy trường hợp sau đây:
1. Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Người khởi kiện không có quyền khởi kiện được hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 04/2017/NQ- HĐTP:
“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186, điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự 2015
a) Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình là người đại diện hợp pháp;
b) Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.
Ví dụ: Tổ chức A (không phải là tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010) cho rằng Công ty B bán hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng như đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết dẫn đến việc chị C (người tiêu dùng) mua sử dụng bị thiệt hại nên Tổ chức A làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty B bồi thường thiệt hại cho chị C. Trường hợp này, Tổ chức A không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
2. Yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.
Ví dụ: Cụ A chết năm 2010, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Cụ A có con là ông B (còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015). Trường hợp này, theo quy định của pháp luật về thừa kế thì anh C là con của ông B không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ A theo pháp luật.”
2. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;
Chưa có đủ điều kiện khởi kiện được hướng dẫn tại Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ- HĐTP:
“1. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật khác có quy định về các điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.
Ví dụ: Công ty A là người sử dụng lao động ký hợp đồng với ông B, trong hợp đồng ghi rõ ông B sẽ được Công ty cho đi học nghề 01 năm, đồng thời ông B có nghĩa vụ làm việc tại Công ty ít nhất là 05 năm kể từ thời điểm học xong. Tuy nhiên, sau khi học xong ông B chỉ làm việc ở Công ty A 02 năm. Công ty A khởi kiện ông B ra Tòa án buộc ông B hoàn trả chi phí đào tạo học nghề khi chưa tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động. Trường hợp này, theo quy định tại Điều 201 Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Công ty A chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án.
2. Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.”
3. Sự việc đã được giải quyết bằng bản an, quyết định đã có hiệu lực pháp luât của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi con nuôi, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại.
4. Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật này mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng.
5. Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án;
Điều 4 nghị quyết 04/2017/NQ- HĐTP hướng dẫn về vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án như sau:
“Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là trường hợp mà theo quy định của pháp luật thì các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết.
Ví dụ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 thì tranh chấp đất đai mà đối với thửa đất đó cơ quan, tổ chức, cá nhân không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 có quyền lựa chọn Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 để giải quyết tranh chấp. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền và cơ quan đó đang giải quyết tranh chấp thì vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.”
6. Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này.
7. Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.
Hậu quả pháp lý của việc trả lại đơn khởi kiện
Thứ nhất, công việc của thẩm phán: Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.
Thứ hai, đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:
Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;
Đã có đủ điều kiện khởi kiện;
Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật (khoản này được hướng dẫn tại điều 7 nghị quyết số 04/2017/NQ- HĐTP). Theo đó, trường hợp khác quy định trong điểm này là trường hợp được quy định tại khoản 4, điều 6 nghị quyết 04/2017/NQ- HĐTP: “4. Trường hợp vụ án bị đình chỉ giải quyết theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này thì theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung cấp được đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”
Khoản này được hướng dẫn cụ thể tại điều 7 của nghị quyết 04/2017/NQ- HĐTP như sau:
1. Người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
2. Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định căn cứ trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, vì vậy, Tòa án không được lấy lý do thời hiệu khởi kiện đã hết để trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp kể từ ngày 01-01-2012, Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết và thời hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại vụ án đó thì Tòa án xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung."
3. "Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật" quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là các trường hợp trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chưa quy định nhưng đã được quy định trong Nghị quyết này, các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. "Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật" quy định trong Nghị quyết này là:
a) Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết" nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó;
b) Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017 Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì chưa đủ điều kiện khởi kiện chia tài sản chung, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án chia thừa kế đối với di sản thừa kế đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó;
c) Trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 6 Nghị quyết này.
Lợi ích khi Khách hàng được tư vấn pháp lý miễn phí về đơn khởi kiện và quy định trả lại đơn khởi kiện qua tổng đài 1900.252501
- Dù bạn ở bất kỳ đâu, bất khi nào chỉ cần sử dụng điện thoại và gọi về số: 1900.252501- Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí của Công ty Luật Thiên Ưng, mọi vướng mắc pháp lý của bạn dù nhỏ nhất cũng được đội ngũ luật sư, luật gia, chuyên gia tư vấn pháp luật luôn lắng nghe và tận tình giải đáp. Điều này xóa tan khoảng cách, sự cách biệt về địa lý giữa khách hàng và Luật sư;
- Luật Thiên Ưng phục vụ liên tục 24 giờ trong vòng 7 ngày làm việc kể cả thứ 7 và Chủ nhật cũng như các ngày lễ, ngày nghỉ và ngày tết. Điều này xóa tan khoảng cánh về thời gian kết nối giữa khách hàng và luật sư.
Nội dung tư vấn pháp lý về đơn khởi kiện và quy định trả lại đơn khởi kiện có hiệu lực qua tổng đài 1900.252501
- Chất lượng dịch vụ tư vấn luôn được đảm bảo và giám sát bởi đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm pháp lý (Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến được đào tạo, tập huấn bài bản về kỹ năng tư vấn pháp luật). Điều này tạo ra sự yên tâm cho khách hàng trong quá trình sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật trực tuyến.
- Tư vấn pháp luật về di chúc là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc liên quan đến việc lập, sửa đổi, công chứng, chứng thực di chúc nhằm đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của di chúc theo quy định pháp luật...
Nội dung tư vấn pháp lý miễn phí về đơn khởi kiện và quy định trả lại đơn khởi kiện có hiệu lực qua tổng đài 1900.252501
- Chất lượng dịch vụ tư vấn luôn được đảm bảo và giám sát bởi đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm pháp lý (Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến được đào tạo, tập huấn bài bản về kỹ năng tư vấn pháp luật). Điều này tạo ra sự yên tâm cho khách hàng trong quá trình sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật trực tuyến.
- Tư vấn soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc liên quan đến việc lập, sửa đổi, đơn khởi kiện nhằm đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của đơn theo quy định pháp luật...
- Tư vấn thủ tục để làm theo đúng quy định của pháp luật về khởi kiện để có đơn khởi kiện hợp pháp, đảm bảo tính hiệu lực của đơn khởi kiện.
- Tư vấn các vấn đề liên quan đến đơn khởi kiện;
- Tư vấn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
- Tư vấn đơn khởi kiện theo pháp luật;
Tiếp nhận và xử lý yêu cầu tư vấn miễn phí về đơn khởi kiện và quy định trả lại đơn khởi kiện qua tổng đài 1900252501
Các bước để khách hàng nhận tư vấn pháp lý miễn phí:
Bước 1: Dùng điện thoại, gọi đến số điện thoại 1900.252501
(Ngoài giờ hành chính, Khách hàng liên hệ số điện thoại 087.9766697 để được Luật sư/chuyên gia tư vấn trực tiếp)
Bước 2: Nghe lời chào từ hệ thống và chọn lựa lĩnh vực cần tư vấn
Bước 3: Bấm phím 1 để được tư vấn pháp lý miễn phí
Bước 4: Trình bày câu hỏi theo hướng dẫn của tổng đài viên và lắng nghe tư vấn!
Quy trình tiếp nhận thông tin: Chuyên viên pháp lý ghi nhận thông tin và nội dung yêu cầu tư vấn pháp lý của khách hàng theo mẫu.
Quy trình xử lý thông tin:
Trường hợp nội dung yêu cầu tư vấn có thể phúc đáp được ngay thì: chuyên viên tiến hành tư vấn, phúc đáp trực tiếp ngay cho khách hàng trên cơ sở các căn cứ pháp lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp nội dung yêu cầu tư vấn phức tạp thì: chuyên viên đề nghị khách hàng thêm thời gian nghiên cứu từ 1h-24h làm việc sau đó trả lời phúc đáp bằng văn bản qua địa chỉ email hoặc zalo do khách hàng cung cấp.
Trường hợp khách hàng có nhu cầu Luật sư nghiên cứu, đánh giá tài liệu, chứng cứ và tư vấn trực tiếp để giải quyết yêu cầu của khách hàng kỹ càng, thấu đáo hơn thì quý Khách hàng sử dụng Dịch vụ Luật sư theo yêu cầu để tư vấn, giải đáp trực tiếp cho khách hàng tại trụ sở Luật Thiên Ưng hoặc qua hình thức trực tuyến thông qua việc yêu cầu trực tiếp tổng đài viên hoặc qua tổng đài 1900.252501, nhấn phím 2.
Trên đây là những ý kiến của chúng tôi tư vấn về vấn đề điều kiện để di chúc có hiệu lực. Công ty TNHH Luật Thiên Ưng hân hạnh đồng hành cùng khách hàng trong việc giải quyết mọi vấn đề pháp lý. Hãy liên hệ với chúng tôi để được sử dụng dịch vụ tư vấn một cách tốt nhất.